Hiện tượng nuôi cá Basa trong ao đang dần trở nên cực nóng ở thời điểm hiện tại. Kể từ vụ kiện bán phá giá năm 2002, đã có nhiều thay đổi trong sản xuất, chế biến và tiếp thị cá tra, basa ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong tương lai, xu hướng phát triển thị trường này sẽ bao gồm: diện tích canh tác tiếp tục được mở rộng, nông dân và các công ty chế biến xuất khẩu (CTCBXK) phấn đấu đạt chất lượng sản phẩm cao hơn, nhu cầu liên kết giữa nông dân với nhau và với CTCBXK sẽ được tăng cường và toàn diện hơn trong tương lai.
Việc xây dựng hệ thống thông tin thị trường, xây dựng quy hoạch nông nghiệp chung cho tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cũng như giúp nông dân kết nối với thị trường được coi là những giải pháp quan trọng để giáo dục nông dân. Đồng bằng sông Cửu Long.
Hộ chăn nuôi cá Basa trong ao đầu tiên trong vùng
Đến với hộ nuôi nuôi cá Basa trong ao của ông La Văn Trình (1972) trú tại Huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Một hộ chăn nuôi giỏi tại tỉnh này cho biết gia đình ông đã luôn đứng đầu trong phong trào thi đua phát triển kinh tế.
Với kinh nghiệm hơn 3 năm nuôi cá Basa thương phẩm chỉ để xuất bán siêu thị, nhà hàng. Ông cho biết “Nuôi cá như nuôi con của mình vậy, phải chăm bẵm từng chút thì mới lớn, ngoan”. Hầu hết cá nhà ông chỉ ăn cám tự ép nên không có chút phụ phẩm. Cá được đảm bảo An toàn – Sạch cám, chất lượng nên các thương lái rất thích.
Hình dáng tiêu chuẩn
Cá Ba Sa đạt chuẩn có trọng lượng cơ thể khoảng 2 đến 5 lạng. Đầu ngắn và hơi tròn, trán rộng và mắt to. Miệng hẹp và hơi cong xuống dưới mõm. Các răng trên to, rộng và hơi nhô ra khi khép lại.
Miệng có 2 cặp râu, một cặp ở hàm trên và một cặp ở hàm dưới , có độ dài khác nhau. Lưng có màu xám xanh, nhạt dần về phía bụng. Bụng to và có màu trắng bạc. Các gai ngục cứng và nhọn.
Mặt sau của ngực có khía. Vùng bụng siêu nhỏ kéo dài đến hậu môn. Hậu môn màu trắng.
Đặc điểm sinh trưởng của nuôi cá Basa trong ao
Tốc độ sinh trưởng của cá Basa cũng khá nhanh, nhất là vào mùa sinh sản.
Khi nuôi trên bè, trọng lượng cá đạt 0,8 – 1 kg/con sau 6 tháng nuôi. Sau 1 năm trọng lượng bình quân 1,2 – 1,5kg/con. Sau 2 năm trọng lượng có thể đạt 2,5 kg/con.
Trong tự nhiên, cá Basa sinh trưởng rất nhanh. Sau 7 đến 8 tháng trọng lượng cá khoảng 0,4 – 0,5 kg/con. Sau 1 năm cá đạt trọng lượng khoảng 0,7 – 1,3 kg/con. Nhiều nghiên cứu cho thấy cá tăng trưởng chiều dài cơ thể nhanh chóng trong 2 năm đầu, sau đó tỷ lệ này giảm dần.
Trong khi trọng lượng cơ thể tăng chậm trong 2 năm đầu nhưng tăng nhanh trong những năm tiếp theo.
Đặc điểm sinh sản của cá Basa
Cá trưởng thành: Cá Basa thành thục ở độ tuổi từ 3 – 4 tuổi. Và ở độ tuổi này cá đã có khả năng sinh sản.
Phân biệt giống cá: Khi cá Basa còn bé vẫn chưa thể phân biệt được đực, cái vì chúng không có cơ quan sinh dục. Khi cá đã trưởng thành hoàn toàn, có thể dễ dàng phân biệt giới tính của chúng bằng cách vuốt tinh dịch của cá đực và thăm trứng của cá cái.
Khi cá bước vào mùa sinh sản, buồng trứng và quá trình sinh tinh của cá cái, cá đực phát triển rõ rệt.
Mùa sinh sản nuôi cá Basa trong ao
Trong tự nhiên, mùa sinh sản của cá Basa có chu kỳ rõ ràng. Khoảng tháng 4 đến tháng 5 hàng năm là thời điểm bắt đầu vào mùa sinh sản. Thời gian đẻ trứng bắt đầu vào tháng Bảy. Cá ba sa cũng có tập tính bơi ngược dòng sông có điều kiện sinh thái thuận lợi để tìm bãi đẻ. Sau khi trứng nở, cá con sẽ trôi xuống sông.
Trong môi trường nuôi nhốt, mùa thành thục và sinh sản của cá ba sa thường sớm hơn trong tự nhiên 2-3 tháng. Mùa sinh sản bắt đầu vào khoảng tháng 2 đến tháng 3 và kéo dài đến tháng 7. hưng thường tập trung vào tháng 4 đến tháng 5.
Sức sinh sản: tỷ lệ trứng trung bình của cá basa trung bình là 5.000 đến 10.000 con Trứng / giai đoạn của con cái.
Thức ăn cho cá
Cá basa cũng là loài ăn tạp như cá tra, thức ăn cho động vật và các chất hữu cơ. Cá ba sa rất phàm ăn, nhưng kém cạnh tranh hơn cá tra. Chúng có thể thích nghi với các loại thức ăn như cá con, giun đất, ốc, côn trùng, rau, bèo, hạt công nghiệp, thức ăn tự chế và phụ phẩm công nghiệp.
Ngoài ra về môi trường tự nhiên
Sau khi Cá ở giai đoạn cuối của túi noãn hoàng ăn động vật phù du.
Trong điều kiện nuôi nhốt, ở giai đoạn đầu khi cá tập ăn thức ăn bên ngoài. Khi cho cá ăn ấu trùng Artemia, Monica, tỷ lệ sống đạt 91-93%. Tuy nhiên, nếu cho cá ăn thức ăn nhân tạo thì tỷ lệ sống của cá chỉ đạt 67%, tốc độ tăng trưởng cũng kém hơn.
Khi cá được 7 ngày tuổi, có thể bắt đầu cho ăn cám nhân tạo. Khi cá lớn tuổi, thức ăn chăn nuôi, thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn tự chế. Có thể được cho ăn từ các nguồn như cám, rau, mảnh cá, bột cá và các phụ phẩm công nghiệp.
Nhưng dù cho ăn thức ăn gì thì hàm lượng đạm trong thức ăn phải từ 30 – 40% để cá phát triển tốt.
Các loại thức ăn tự làm nên được phối trộn và nghiền ép thành dang viên cho cá ăn. Sử dụng máy ép cám viên dạng nôi để tạo thức ăn cho cá. Việc tự làm thức ăn tự nhiên sẽ giúp cho cá phát triển tối ưu nhất. Vừa cung cấp được đầy đủ chất dinh dưỡng cho cá mà lại tiết kiệm chi phí chăn nuôi tới 40%.